(gồm những bài dài trên 24 câu)
Buồn Thay
Buồn thay đại dịch toàn cầu
Mùa đông heo hút bạc màu khói sương
Bởi ai gieo rắc tang thương
Bắc Kinh Vũ Hán thê lương thế này
Ngậm ngùi chua chát đắng cay
Lợn kêu eng éc chuột đầy mả hoang
Xác người không liệm bẽ bàng
Lò thiêu chật chội phũ phàng ngày đêm
Hỏa Thần Sơn, dọa xây thêm
Bầu trời ảm đạm bên thềm quạ đen
Tập đoàn sát máu bon chen
Gạt lường thế giới nhỏ nhen độc tài
Mưu đồ thống trị nhân loài
Tham lam ích kỷ bi ai ngập tràn
Thiên tai nhân họa ngút ngàn
Cỏ cây đồng ruộng bầy đàn xâm lăng
Biển Đông quen thói hung hăng
Công trình văn hóa san bằng sạch trơn
Trẻ gìa lăn lóc tủi hờn
Xế chiều đom đóm chập chờn xác xơ
Hồn ma bóng quế bơ vơ
Cách ly trần thế dật dờ đi đâu?
Dập vùi bãi bể nương dâu
Hung hăng châu chấu giang đầu cạn khô
Chặn nguồn nước chiếm sông hồ
Thức ăn độc hại tham ô bạc tiền
Lo toan xây dựng chính quyền
Khinh thường mạng sống nhãn tiền trả vay
Nợ nần nghiệp quả xưa nay
Thương thiên hại lý bủa vây lưới trời
Não nùng giọt lệ tuôn rơi
Vi trùng cấy ghép khóc cười ác ma!
24.3.2020 Lu Hà
Thế Kỷ Tang Thương
Than ôi! Thế kỷ tang thương
Bao lần đại dịch thê lương thế này?
Ngây thơ dân tộc đắng cay
Cờ đen nấm mộ chuỗi ngày khổ đau
Cội nguồn ta hỏi từ đâu?
Vi trùng mầm bệnh nhuốm màu thịt tươi
Chiến tranh sinh học giết người
China Vũ Hán trò chơi thế quyền
Tập đoàn tham nhũng vì tiền
Con đường tơ lụa đảo điên hoàn cầu
Cho vay bẫy nợ mưu sâu
Dụ bầy cá đói cắn câu độc tài
Thân người co quắp bi ai
Xây lò hỏa táng vành đai mịt mù
Mùa đông gió thổi âm u
Hồn ma bóng quế vân du nẻo nào?
Mẹ cha nước mắt nghẹn ngào
Đàn con nheo nhóc khóc gào đòi ăn
Xác người không liệm nằm lăn
Phố phường chồng chất trở trăn nỗi niềm
Vầng trăng ảo não bên thềm
Ăn sương tiếng quạ buông rèm quạnh hiu
Dương cầm thánh thót buồn thiu
Chuông chùa phảng phất dập dìu hồn ma
Điêu linh bốn bể châu hà
Hỏa Thần Sơn động, đạo tà chủ trương
Tranh giành bá chủ siêu cường
Một rừng xương cốt đại dương thảm sầu!
31.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 12
Mùa thu đến khí dương chẳng trọn
Mưa dầm dề đội nón trên đường
Hơi sương lạnh lẽo chán chường
Tiết đông heo hút thê lương bức rèm
Làn gió thổi lem nhem tan giá
Keo dán hình đất đá sượng câm
Ráo khô bực bội nóng hầm
Bùn lầy nhão nhoẹt cát lầm nứt đê
Câu khí hậu bất tề nên nhớ
Bờ sông quê sụt lở theo nhau
Cỏ cây tàn tạ khổ đau
Mong sao tương đắc trước sau hóa lành
Chỉ e ngại tranh giành khách khí
Không thuận hòa vị trí soán ngôi
Ngũ hành điên đảo than ôi!
Ghế cha phế truất con ngồi lên trên
Sinh bệnh tật cố nhiên nóng giận
Tiều cho rằng khí vận thế này
Mấy năm thuận nghịch thưa thày
Dẫn đưa y học xưa nay tận tường
Khắc tư thiên lẽ thường năm vận
Bởi tư thiên sinh vận thuận tâm
Năm nào biến chứng nghịch tầm
Vận đồng với khí là năm thiên phù
Sáu mươi giáp một
chu kỳ đến
Mười hai năm xuất hiện một lần
Kể ra Mậu tý, Mậu dần
Mậu thân, Mậu ngọ, Bính Thần, Tuất chi
Năm Kỷ sửu, Kỷ vi tính tới
Mão Dậu hai Ất Hợi Tý Đinh
Cho hay vận khí đồng tình
Mười hai năm ấy chúng sinh thiên phù
Vận khí đến vân du mấy lối
Thấp thỏm coi tuế hội tám chi
Đếm đầu Kỷ sửu, Kỷ vì
Giáp thìn, Giáp tuất, thổ vi thổ làm
Đinh mão mộc nhăm nhăm Ất dậu
Kim tiếp theo Mậu ngọ lửa dầu
Coi chừng Bính tý mưa ngâu
Thiên phù tuế hội hợp nhau nhất thì
Thái ất kia bốn chi
hội đủ
Từ Kỷ sửu chiêu dụ Kỷ vi
Theo nhau Ất dậu hơi đi
Một bờ Mậu ngọ thầm thì gió may
Coi năm tháng giờ ngày tính toán
Cờ tư thiên mà đoán cơ duyên
Gỉa như Mậu ngọ thường niên
Vận đồng với khí từng thiên rõ rành
Gặp năm ấy khó lành bệnh tật
Sách nội Kinh coi thật bao la
Máy trời trắc trở sơn hà
Mười hai năm lại sinh ra bất hòa.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
20.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 13
Sự trái ngược nhạt nhòa hơi khí
Mười hai năm định vị thiên hình
Nguy nan tạo vật điêu linh
Đất trời giành giật chúng sinh thảm sầu
Khi tiểu nghịch biết đâu sinh vận
Thuận hóa thành phấn chấn vui thay
Nhiệm màu nào có ai hay
Can chi nhộn nhịp cho ngay đức phù
Có hai ngôi vân du tuế hội
Vận suy ty rẽ lối xét bàn
Nội kinh hai chữ khuyên can
Hại cang thừa chế cản ngăn rõ ràng
Hữu dư bất túc càng cố gắng
Xuất nhập cho thăng giáng hẳn hoi
Phân minh mọi sự rạch ròi
Mỗi năm đồ vẽ cần coi tận tường
Soi xét kỹ bất thường tà chính
Bậc lương y suy tính trước sau
Hai luồng khí vẫn đua nhau
Thành tâm hóa dục khổ đau tiêu dần
Bầy dân đen xa gần trông ngóng
Y đức cao trọng vọng tiếng thày
Kê đơn bắt mạch chuyên tay
Bệnh tình thuyên giảm thuốc hay mau lành
Lương y giỏi xứng danh từ mẫu
Từ cổ kim khắc dấu ghi tên
Hoa Đà Biển Thước hoàng thiên
Lãn ông Hải Thượng thần tiên giúp đời
Chỉ e rằng các ngươi lười biếng
Đạo chẳng chuyên để tiếng cho ta
Thị phi miệng lưỡi phun ra
Học hành trí trá gần xa tin đồn
Ngư Tiều xin Sư tôn chỉ bảo
Kinh nghĩa trong y đạo kín xa
Nghe câu cang hại chưa ra
Dẫn trong kinh sách bao la vô cùng
Rừng chữ nghĩa mịt mùng vô tận
Muốn tinh thông phải dấn thân đi
Đan Kỳ cửa đạo tinh vi
Uyên thâm y thuật nhất nhì chẳng ngoa
Rừng bản thảo cỏ hoa kỳ lạ
Suối nước trong sỏi đá bất thường
Đủ mười hai bộ đan phương
Biết bao mùi vị mở đường từ bi
Thảo mộc cũng tương tri lân lý
Rất nhiều loài chọn kỹ tìm lâu
Một bộ kim thạch ở đầu
Trăm ba mươi tám đúng câu đá vàng
Bộ thảo thượng rõ ràng quý hiếm
Chín mươi lăm tìm kiếm hột hoa
Thảo trung một bộ nối ra
Chín mươi bảy giống gốc chà lá cây.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
21.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 14
Nhân thuốc ấy bấy chầy một bộ
Có hai mươi vị đủ chi dùng
Ở trong thú vật bổ sung
Chín mươi mốt giống mật cùng da xương
Phải kể đến gan lòng tim phổi
Nào ba mươi bốn cội cánh lông
Bộ trùng ngư thuốc bềnh bồng
Chín mươi chín loại non sông tuyệt vời
Thuốc thường kiếm là nơi cầm điểu
Mễ cốc kia công hiệu cứu đời
Ba mươi tám giống là nơi
Gieo trồng quả phẩm muôn người trọng coi
Bốn mươi giống thảnh thơi bách thảo
Sáu mươi hai hương hảo khỏi lo
Cộng mười hai bộ trời cho
Một ngàn bốn vị trong lò hóa công
Xưa có họ Thần Nông cao nhất
Đã thay trời trị vật yêu dân
Trải qua độc vị thế gian
Một ngày hơn bảy mươi lần trúng thương
Biết bao vật âm dương nếm thử
Chẳng đắn đo do dự cứu người
Dò tìm cây cỏ khắp nơi
Soạn ra sáu tính khác hơi năm mùi
Đã thành hình nằm vùi dưới đất
Đủ đắng cay ngọt lạt mặn chua
Sát sao cách thức theo mùa
Xăm soi ngũ vị kết tua luận bàn
Nhóm vị cay dễ tan trong nước
Chua hay thâu mặn được nhuễn liền
Đắng thường vội vã nóng lên
Ngọt càng chậm lại nhạt nên tận tường
Cay ngọt lạt thuộc dương phải biết
Mặn đắng chua nhất thiết là âm
Có khi dương ở trong âm
Âm trong dương đó dễ nhầm lắm thay
Máy mầu nhiệm cầm tay dày mỏng
Hơi đục trong thất vọng chẳng đồng
Giữ cho sáu tính tương thông
Gọi là thăng giáng ôn lương đến cùng
Đừng lạc lối mê cung tả thực
Bổ hay hư tỉnh thức trên giường
Cho hay tính thuốc nhiều đường
Xưa nay năm vị vẫn thường chia ra
Ngăn tà dâm xâu xa sáu cửa
Sáu đạo binh ngang ngửa ầm ầm
Có mùi cay mát giữ cầm
Mỏi mòn hơi gió âm
thầm nửa phong
Mùi mặn lạnh đề phòng cửa nhiệt
Lửa hừng lên phải biết hậu môn
Đất nơi cửa thấp ướt dồn
Ngửi mùi cay nóng bồn chồn giác quan.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
22.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 15
Nếu cảm thấy khô khan cửa táo
Đường hàn môn lạo xạo băng sương
Ưá trào vị đắng táo hương
Thoảng bay độc khí thất thường ngoại khoa
Mùi thuốc ghẻ mấy toa chăng chớ
Năm vị này úy ố trái nhau
Có mười tám vị trước sau
Còn mười chín vị sắc màu nhuộm pha
Sách sử ghi lời ca ố úy
Mười tám bài hệ lụy phản nhau
Nào là bán hạ qua lâu
Ai hay bối mẫu chân
cầu tử sinh
Này bạch cập rập rình bạch liễm
Cả hai đều xâm chiếm ô đầu
Nguyên hoa hải tảo từ đâu
Ngán sao đại kích từng xâu đọa đày
Vị cam thảo càng day dứt thuốc
Các lọai sâm bạch thược trái ngang
Lê lô quả thật phũ
phàng
Lương tâm thày thuốc bẽ bàng ngàn thu
Hồn ma khóc âm u gió thổi
Lư hoàng kia nóng hổi lửa phun
Phác tiêu cửa ải mây đùn
Thủy ngân chớ để hạp hùn tỳ sương
Mật đà tăng bất lương lang độc
Ba đậu kia thảm khốc xiết bao
Khiên ngưu chăng hợp kết giao
Đinh hương chớ để lẫn vào uất kim
Kinh tam lang nổi chìm khó hợp
Với nha tiêu từng hớp thuốc thang
Nực cười tê giác lăng xăng
Xuyên ô trộn lẫn nhì nhằng thảo ô
Ngũ linh chi từng tô đáng sợ
Với nhân sâm họa đó ích gì
Điều hòa quan quế nhâm nhi
Rất hay khí lạnh thầm thì yến anh
Gặp thạch chi hóa thành công cốc
Phải dày công bốc thuốc chuyên tay
Học hành chăm chỉ tháng ngày
Tinh thông thuận nghịch càng hay mọi đàng
Ngư cho rằng từng thang thuốc quý
Phải đúng liều chẳng lụy đến thày
Vài toa bệnh đã dừng ngay
Dẫn cười đạo hạnh xưa nay tỏ tường
Câu đối chứng lập phương cần nhớ
Quân thần kia tá sứ đo lường
Vua tôi hòa hợp một đường
Đừng gây tạo phản bất lương hại người
Nay ta mở các ngươi mấy cửa
Sẵn bảy phương đại tiểu ngẫu cơ
Phức cùng hoãn cấp sờ sờ
Khá trông mười tễ càng dư tuần hoàn
Tễ là bổ chu toàn thành thạo
Hoạt trọng khinh sáp táo thấp thôi
Bảy phương mười tễ biết rồi
Tán thang minh bạch trau dồi kỷ cương.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
23.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 16
Phải thấu hiểu tận tường gốc rễ
Các mẫu hình vị tễ từ đâu
Cân đo bào chế sắc mầu
Chớ nên nhầm lẫn dao cầu khéo tay
Dùng muối mặn gừng cay mật ngọt
Đủ dấm chua rượu rót chế liền
Nấu hầm than nướng lửa chiên
Ngấm vào kinh lạc đáng tiền chi ra
Mật ong thấm ruột rà phế vị
Muối thì vào thận trị dấm can
Nước gừng ngấm tới tỳ quan
Rượu hoà nước tiểu ngập tràn tâm kinh
Muốn công hiệu phân minh ngũ vị
Thuốc đã dùng thần trí phải tinh
Đun sôi nấu chín do mình
Giữ gìn thể trạng bệnh tình chóng quên
Ăn uống sạch cũng nên nhất thiết
Chất mặn nhiều khí huyết sẽ tăng
Cay thì hơi xịt lăng xăng
Hại xương chát đắng mọi đằng kiêng khem
Kìa dưa chua thòm thèm lưỡi miệng
Ngọt coi chừng từng miếng thịt thăn
Mọi điều cặn kẽ khuyên răn
Cổ kim rành rẽ can ngăn đã nhiều
Lắm của ngọt bấy nhiêu bệnh tật
Thuốc uống vào thành thật ăn dè
Kiểm tra nhiều món khắt khe
Tham ăn tục uống chỉ e hại mình
Nếu trong thuốc truật linh giả dụ
Tỏi dấm mùi dễ sợ không ưa
Uống trà phải tránh
quả dưa
Hoàng liên phảng phất quyết chừa bò heo
Cát cánh ấy chẳng theo hành sống
Địa hoàng xa mấy vống cải kia
Thịt trâu, Ngưu tất chia lìa
Xương hầm măng củ bên rìa chó dê
Thói quen hay bộn bề khắc thuốc
thịt cá dầu mỡ buộc
bỏ ngay
Trái cây rau sống ai hay
Kiêng khem thì khá tháng ngày bền lâu
Ta xin nói một câu huân tập
Bệnh tất tòng khẩu nhập giữ mình
Bốc từng thang thuốc cho tinh
Thuận theo thủy hỏa sinh linh tận tường
Đẩy dương số tiên phương mới thật
Tâm pháp thành thực chất xưa nay
Cao minh y thuật chuyên tay
Tiện bề vấn đáp sách hay để đời
Thày đã dạy bao lời ưu ái
Bậc cao nhân chẳng trái lương tâm
Mong trò y thuật tới tầm
Cứu nhân độ thế tình thâm giống nòi.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
24.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 17
Nay tổng quát rạch ròi đơn thuốc
Các trò nên học thuộc ghi lòng
Baỷ phương mười tễ cân đong
Thành thang hoàn tán bột trong đan ngoài
Phòng thuốc giả đúng sai tỉ mỉ
Bào chế quen mùi vị phân minh
Chớ nên khéo léo cậy mình
Chín thăng sống giáng thuận tình kiêng khem
Ngân hoa dễ nhá nhem lợi thủy
Dấm lại càng liên lụy khó thông
Đậu xanh nguyên vỏ không công
Khó bề giải độc ói nồng xình hơi
Thảo quả chữa cho người đầy bụng
Để vỏ thành rẻ rúng ngực đau
Viễn chi hắc sửu gặp nhau
Độc càng phát tác trước sau tỏ tường
Bồ hoàng sống để thông khí huyết
Nấu chín ăn thì tuyệt vô cùng
Địa du cầm huyết diệt trùng
Trần bì chữa khí màng cung trắng cường
Chống phong ngứa cứu dương phụ tử
Chữa phong tê phải có thảo ô
Ngất ngư mầm bệnh cờ hồ
Mỗi khi dùng sống dật dờ hồn mây
Nhân ngôn đốt như thày chỉ dẫn
Đá phải nung mới tán dấm ngâm
Xuyên khung loại bỏ âm thầm
Chất dầu nguy hiểm khí âm bềnh bồng
Tiều xuân hạ thu đông tác quái
Cả bốn mùa thuốc sái thất thường
Trời già đảo lộn âm dương
Xuân hòa hạ nóng thu hương đông tàn
Dẫn căn dặn dân gian trị bịnh
Tùy theo mùa suy tính đắn đo
Mùa nào thuốc ấy thăm dò
Tinh thông y thuật khéo lo chu toàn
Vào tiết xuân nồng nàn không khí
Thuốc quen dùng thấm vị thanh lương
Mùa hè nóng nực tăng dương
Từng thang hạ nhiệt thông thường hàn sa
Đến mùa thu gần xa man mát
Gió heo may dào dạt tình ca
Dập dìu sóng vỗ giang hà
Trai thanh gái lịch mặn mà yêu nhau
Hội hoa bướm khoe màu ân ái
Sợ thời gian quan tái sơn hà
Thu đông vội vã mọi nhà
Đất trời hy vọng thái hòa an khang
Bệnh thời khí dễ dàng bột phát
Cảm cúm hay sát phạt đủ đường
Đến coi bắt mạch tận giường
Thuận theo bệnh lý đúng phương thuốc dùng
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
26.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 18
Lắm trường phái tựu trung học tập
Dám so bì cao thấp Đan Kỳ
Lưu truyền đạo hạnh lương y
Non xanh nước biếc lâm ly nẻo nào
Danh tiếng thơm xôn xao bốn bể
Đã bao đời kính nể hóa công
Ngày xưa có họ Thần Nông
Viêm Hoàng nếm trải núi sông tôn thờ
Khắp muôn nơi trông chờ dược thảo
Kỳ Bá quen giao hảo cứu đời
Nội kinh nổi tiếng một thời
Đất trời cảm tạ bao lời ngợi khen
Pho Tố Vấn tương truyền y đạo
Bệnh tật ghi chu đáo đến nay
Hai mươi bốn quyển sách dày
Phân ra tám chục thiên bày rạng danh
Từ đại luận thực hành màu nhiệm
Chắng bao giờ dấu diếm mạch kinh
Vẽ đường chỉ dẫn tượng hình
Đủ năm vận khí tận tình theo năm
Phép châm cứu cần chăm trị liệu
Trong thời thang dịch cứu mạng dân
Từ Hiên, Kỳ thị bao lần
Trải qua thế kỷ bậc thần y ra
Như Biển Thước nhà ta phát triển
Có tám mươi mốt quyển Nạn kinh
Có ông Hoàng Phủ tài tình
Soạn kinh giáp ất thanh minh trăng rằm
Trương Trọng Cảnh chẳng ham quyền quý
Hãy coi pho kim quỹ ngọc hàm
Nào ai còn nổi máu tham
Trong ngoài hư thực phép làm bao la
Từ Lưu Tử nối ra vô tận
Tới Hà Gian tinh tấn hai pho
Đông Viên họ Lý trời cho
Mười pho bạt tụy đo dò thâm sâu
Miền Đan Khê thày Chu để lại
Sách thuốc kia mấy đại pho kinh
Đều từ nội lực trong mình
Diễn ra hóa giải tướng tinh cứu người
Y thư kể các nơi chẳng hết
Đàn trâu kêu khẩn thiết cột nào?
Sách nhiều vô kể xiết bao
Học trò tính học bộ nào cho hay
Bào Tử Phược mong thày chỉ giáo
Mộng Thế Triền thế đạo xưa nay
Thánh hiền trăm bộ chuyên tay
Dẫn cười chú giải lỗi dày chuyên tâm
Xét nguồn gốc mở tầm tra cứu
Sách bách gia hai chữ ” Chiết trung”
Đạo đời kinh nghiệm của chung
Lương y từ mẫu tận cùng tâm can
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
28.3.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 19
Bản thảo xem trước ngăn sơ xuất
Tố Vấn sau coi thật bệnh tình
Phòng ngừa bốc thuốc hành kinh
Tốn công bào chế khéo tinh tường dùng
Ngoài thang dược tận cùng Y Doãn
Trong lo toan xét đoán nhiều phương
Theo ông Trọng Cảnh tìm đường
Đông Viên học phép nội thương tận tường
Này Hà Gian một chương nhiệt học
Tạp bệnh nhiều khó nhọc khuyên chàng
Đan Khê chớ có vội vàng
Họ Vương kinh mạch rộng đường thênh thang
Trương Tử Hòa vấn vương nghề thuốc
Có lắm khoa khéo bốc biếu thừa
Đầy tràn y lý hay chưa
Nhiều phương lắm lối từ xưa đến giờ
Đem so sánh ai ngờ cũng lỗi
Sạch dòng trong nguồn cội bao la
Ghi lòng tạc dạ lời ta
Nêu ngay bóng thẳng chiều tà dần phai
Ngư xin hỏi thờ ai trong miếu?
Dẫn trả lời đạo hiệu Phục Hy
Tổ xưa là một rừng y
Cao nhân thiên hạ thần kỳ theo sau
Truyền mười đời Qủy Du Khu dẫn
Tới Linh Khu Tổ Vấn sách biên
Nối theo vua thánh tôi hiền
Mười ba đặng kể họ tên nối dòng
Người thượng cổ trọn lòng y lý
Bốn mốt ông nho sĩ đại phu
Dày công đọc sách chuyên tu
Trương, Tôn bọn ấy ngao du một thời
Tần, Sào cũng trọn đời danh giá
Hàng trăm năm vàng đá sáng tươi
Minh y chín chục tám người
Thế y hai chục sáu cười tài hoa
Nhà nối nhà sáng lòa đức hạnh
Lâu, Từ từng hiển hách nghiệp cha
Trường Tăng theo gót thiết tha
Có mười chín họ nhân hà
quang vinh
Bao thế kỷ chúng sinh ngưỡng mộ
Hơn hai trăm thi thố tài năng
Ngàn năm soi sáng tuyết hằng
Tiếng thơm để lại xênh xang mọi đàng
Trước Phục Hy Tam Hoàng buổi đó
Tựu Thải kia đã mở mang nhiều
Dạy ông Kỳ Bá bao
nhiêu
Huyệt do kinh lạc lắm chiêu nhiệm màu
Phép châm cứu đua nhau học tập
Thuốc chẳng cần hòa nhập âm dương
Nội công vận khí thông thường
Tĩnh tâm ép độc trọn đường hiếu sinh
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
29.3.2020 Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét