Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2020

Chùm Thơ Tình Dài Số 284


(gồm những bài dài trên 24 câu)

Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 2

Bạn đồng môn ai ngờ gặp lại
Trên dòng sông buồm lái vi vu
Lửa chài mây khói trời U
Mui che gió Tấn mấy thu dãi dầu


Thú phù sinh nông sâu nếm trải
Tuổi hạc cao chẳng ngại sóng vờn
Cá tôm đen khịt chập chờn
Mặc đời ngao ngán giận hờn thế gian

Bào Tử Phược băn khoăn thế sự
Lắng tai nghe tư lự bạn hiền
Nghẹn ngào cùng Mộng Thế Triền
Tri âm tri kỷ hàn huyên dãi dề

Người thức thời chẳng mê tiên phật
Đường công danh lật đật phôi pha
Thương câu thế đạo đồi ba
Biết bao kẻ sĩ sa đà trần ai

Tự huyễn hoặc cam lai khổ tận
Bậc hàn nho lận đận áo cơm
Trời già quen thói bờm xơm
Sôi kinh nấu sử củi rơm cháy nồi

Lòng nguội lạnh than ôi ngọn lửa
Bếp nhà nghèo chữ nghĩa ích chi
Khổng Khâu vật vã trí tri
Dửng rưng Lão Tử tu mi thẹn thùng

Thật nực cười cố cùng quân tử
Nợ thanh khâm mồi nhử cá vàng
Vinh quy bái tổ vẻ vang
Quan trường chen chúc giàu sang dật dờ

Gối hoàng lương giấc mơ vụt biến
Mộng nam kha đàn kiến lao xao
Vu Phần tham chén rượu đào
Thảm thương phò mã ứa trào dòng châu

Chả mấy chốc nương dâu bãi biển
Khóc tang điền triền triện còn bay
Phù du quyến rũ men say
Sòng đời đen đỏ đắng cay não lòng

Thuở Đông Chu long đong xuôi ngược
Bao anh hùng cá cược vận may
Đạo đời xung khắc đến nay
Hạ Thương đường cũ càng day dứt nền

Từ Văn Vũ tạo nên công nghiệp
Bảy bá vương nối tiếp lợi danh
Gầm ghè xâu xé tranh giành
Kinh Lân dẹp loạn ruồi xanh một bầy

Sử Mã khôn cáo cầy mọi rợ
Mặc Dương càng dùi mõ lấn sang
Tiếng chuông Phật Lão khua vang
Lửa Tần tro Hạng sắt gang nguội dần

Đám cửu lưu xa gần bái tổ
Ánh trăng vàng cổ độ Hán am
Chùa Lương nhả khói già lam
Bên đường tam giáo càng ham xưng thầy

Khe Đào Lý một bầy chạy trốn
Trúc đình Lan chộn rộn cuồng say
Thi thư mọt ruỗng ai hay
Lê thê lễ nhạc sương bay mịt mù.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
11.3.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 3

Hận đại dương thiên thu dòng nước
Chặn cội nguồn xâm lược lân bang
Bàn môn tả đạo nhố nhăng
Dân đen ngắc ngoải bẽ bàng triều cương

Bào Tử Phược hỏi đường gia thất
Mộng Thế Triền chân thật giãi bày
Nỗi niềm u uẩn chất đầy
Năm lần cưới vợ trật trầy mãi thôi

Bốn nàng trước xa xôi chín suối
Người cuối cũng tội lắm thay
Xanh xao tàu lá gió bay
Ốm đau vật vã chuỗi ngày sầu bi

Hậu sản đã cướp đi tính mạng
Củi bán ra chẳng đáng mấy thang
Dại khờ tin tưởng thày lang
Mua toàn thuốc rỏm bệnh càng nặng hơn

Bầy quạ đen chập chờn bay lượn
Bốn mả hoang rùng rợn khổ đau
Chân chim rám nắng bạc màu
Liễu bồ rặt rẹo sớm mau héo tàn

Ngư phủ buồn ứa tràn giọt lệ
Biết làm sao san sẻ điêu linh
Xót xa cám cảnh phận mình
Đói nghèo bệnh tật gia đình sầu tang

Mười lần sinh vợ càng yếu đuối
Đàn con thơ giận dỗi bỏ đi
Bụng phình cam tích da chì
Lòi trôn kiết lỵ mặt phì mụn ra

Tám đứa hận sa bà oan trái
Hồn lang thang quan ải mù sương
Suối vàng lặn lội thê lương
Chỉ còn hai đứa can trường lớn lên

Cõi dương gian hao tiền tốn của
Thương mẹ cha củi lửa sớm hôm
Nhờ trời cũng lắm cá tôm
Bát cơm manh áo trăng ôm mái nhà

Khách lãng du quan hà kẻ sĩ
Nhiều chuyển đò thú vị Y lâm
Tiều phu nghe chuyện mừng thầm
Học nghề thày thuốc từ tâm giúp đời

Ngư phủ mới tươi cười hể hả
Kỳ Nhân Sư thiên hạ lừng danh
Nho gia y thuật đạo hành
Tinh thông dược thảo thuần thành nhiều năm

Đủ kinh luân chẳng nằm một chỗ
Bậc đại phu đây đó xông pha
Ẩn mình chôn ngọc thiết tha
Vùi kim nương náu nhân hà cứu tinh

Bào Tử Phược phân minh sau trước
Chẳng kém chi Biển Thước Hoa Đà
Ngựa xe cát bụi bao la
Ngọa Long Cương, có mái nhà cỏ tranh

Gia Cát Lượng thi hành chánh pháp
Lưu Sứ quân thu nạp hiền tài
Hi Di ngũ quý kìa ai
Ngọc lân Sử Lỗ dao đài nguyệt sa

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
11.3.2020 Lu Hà




Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 4

Mộng Thế Triền thiết tha cầu khẩn
Tìm hiền nhân quyết dấn thân vô
Nghe thơ khét tiếng cao đồ
Quản chi biển cả giang hồ đó đây

Tài Lý Đỗ chất đầy thuyền lưới
Luật thi đường chẳng vội xưng danh
Mặc cho thiên hạ tranh giành
Văn chương sư phụ đạo hành chân y

Bào Tử Phược Đan Kỳ lần tới
Đường gập ghềnh rắc rối éo le
Khỉ ho cò gáy suối khe
Rừng sâu vực thẳm sơn khê dặm trường

Phải nhằm hướng biên cương thảo dã
Aỉ Nhân Khu thác đá giang đầu
Lấy da bao thịt làm bầu
Lạch thông chín nẻo dãi dầu tuyết sương

Mười hai kinh lạc thường ngang dọc
Phủ Dương Quan thần khóc quỷ sầu
Trập trùng đồi cọ nương dâu
Xéo ngang năm tạng qua cầu Âm Đô

Thế sừng sững vách tô tả hữu
Hồ huyết quan thạch lựu trổ hoa
Nước non nguyên khí chan hòa
Xôn xao hồn phách nhạt nhòa máu tươi

Ngôi thần chủ chơi vơi sườn núi
Sửa sang mình cắm cúi bước đi
Thất tình nhục dục thầm thì
Có vườn ngũ vị rầm rì tốt tươi

Suối róc rách như lời du sĩ
Còn lắm nơi huyền bí hiểm nghèo
Mắt làng Lục Tặc dõi theo
Quanh co ngõ ngách giữ đèo Tam Thi

Ong bướm bay rầm rì hoa lá
Cánh nhạn sa đàn cá tung tăng
Xui lòng ái dục lăng nhăng
Lăng loàn cửa mộng Bì nang mơ màng

Hoa mẫu đơn dịu dàng uốn éo
Đón gió xuân vào động Tôn Cân
Thòm thèm chích chọe tranh phần
Bỏ chùa bà vãi tần ngần ngẩn ngơ

Sư hổ mang thẫn thờ đùi chó
Qủy sa tăng dụ dỗ táo thơm
Hai con trống mái bờm xơm
Gà rừng  vật lộn cỏ rơm say mèm

Cây thập ác nhá nhem sáng tối
Aó thụng đen bối rối đi đâu
Nhấp nhô ngọn sóng bạc đầu
Nho sinh hoang dại dãi dầu tuyết sương

Thấy tấm biển hoàng dương ánh sáng
Ánh trăng vàng tỏ rạng Tam Công
Ai hay lạc lối tiên bồng
Họa đồ ba bức chỉ hồng thêu nhung

Ngồi trong miếu lạnh lùng Sư tổ
Hồ linh đan thuốc đỏ hai hoàn
Nghẹn ngào khóe hạnh chứa chan
Bôi da trẻ nhỏ tật tàn mất tiêu

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
13.3.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 5

Rừng bách thảo phiêu diêu tự tại
Bậc chân nhân chẳng ngại non cao
Thương con lòng mẹ dạt dào
Cao minh y thuật nghẹn ngào chúng sinh

Vậy xin hỏi nhân huynh cho rõ
Người quen kia đã tỏ tận tường
Phược cười trong khách thập phương
Có Châu Đạo Dẫn dặm trường phôi pha

Triền do dự việc nhà bê bối
Đôi ba ngày sẽ tới thăm anh
Chần chừ ánh mắt tinh ranh
Chỉ e Lục Tặc gian manh chặn đường

Bào Tử Phược cương thường chính trực
Võ nghệ cao mưu chước thâm sâu
Quen nghề chài lưới vó câu
Sá chi mấy đứa đâu trâu mặt bò

Mộng Thế Triền đắn đo chi nữa
Còn ngại ngùng lần lữa làm chi
Cả hai bàn bạc tức thì
Hẹn ngày xuất phát lễ nghi sẵn sàng

Cũng vừa tiết xuân quang náo nức
Mộng Thế Tiền thao thức sầu miên
Buồng trong nghe vợ kêu rên
Sang nhà nhạc mẫu kề bên dặn dò

Đành gửi vợ bạc tiền chu đáo
Đủ vài năm cơm gạo thuốc men
Lang băm chữa chạy ho hen
Qua ngày đoạn tháng phận hèn chờ mong

Tay chống gậy thong dong đường bộ
Cá tôm khô bao bố ngô khoai
Rượu hồ tương gạo đè vai
Quản chi lau lách cỏ gai bùn lầy

Tiết thanh minh canh chầy rệu rã
Ánh trăng vàng phiến đá tả tơi
U yên cảnh cũ trêu ngươi
Trăm hoa đua nở khóc cười dở dang

Mưa tầm tã chói chang nắng cháy
Khách qua đường chẳng thấy có ai
Ngậm ngùi nghĩ chuyện khứ lai
Đông Hoàng xa lắc trúc mai chỉ đường

Cũng có lúc chán chường ngao ngán
Đá chênh vênh suối cạn cúi đầu
Bụi cây oan khuất lạy cầu
Chúng sinh ngắc ngoải dãi dầu muối sương

Lắm bệnh tật thê lương ảo não
Chim líu lo mách bảo dân tình
Mưa sầu gió thảm điêu linh
Băn khoăn tự hỏi lộ trình ải xưa

Bỗng có người cưỡi lừa đi tới
Tiếng ngâm thơ vời vợi thanh tao
Hai người dừng gót thì thào
Đợi chờ sau tính hỏi chào xem sao?

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
14.3.2020 Lu Hà




Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 6

Ngày đông giá hư hao lá rụng
Phận nghèo hèn rẻ rúng lắm thay
Thân gày trước gió lắt lay
Bát cơm manh áo đắng cay nỗi niềm

Miền sơn cước trên thềm sáng tỏ
Vườn Lâm Y cây cỏ tốt tươi
Trèo đèo lội suối tới nơi
Viếng thăm đạo cốt nụ cười chân nhân

Châu Đạo Dẫn tần ngần sửng sốt
Bạn tương giao đường đột đến đây
Ngư Tiều vội vã tỏ bày
Thiết tha học thuốc tìm thày Nhân Sư

Y thuật cao thiên tư đức hạnh
Khắp ngân hà thái bạch chân như
Lương y lòng mẹ nhân từ
Công ơn tế độ giải trừ nguy nan

Am Bảo Dưỡng bình an thư thái
Đợi thày về ta lại hỏi xem
Trăng thanh gió mát buông rèm
Mười hai kinh mạch thòm thèm nông sâu

Cả ba người cùng nhau kết nghiã
Học nghề y thấm thía tâm tình
Âm dương ba số bội tinh
Tay chân tả hữu thân hình ra sao?

Thập nhị ca dạt dào kinh lạc
Kinh thái dương thông bác ruột non
Thủ dương bọng đái sắt son
Thái âm kinh túc lại còn tam tiêu

Phải thuộc đường bao nhiêu chi phối
Này dạ dày tim phổi thận gan
Quản chi ngày tháng gian nan

Lầu thông sách vở chứa chan ân tình

Nhiều khí huyết dương minh kinh thủ
Phải nhớ ngay tích tụ ruột già
Dạ dày kinh túc đầm đìa
Đôi khi thiếu máu phân chia  bốn đường

Ruột non bọng đái trương gan mật
Bốn kinh thông phải thật tỏ tường
Cốt cho tim phổi bình thường
Điều hòa thân nhiệt canh trường ngủ ngon

Mộng Thế Triền bệnh còn lắm chứng
Kinh lạc nhiều chịu đựng sa sao?
Họ Châu y thuật thày cao
Kê đơn bắt mạch đem vào đường kinh

Bốc thuốc đúng bệnh tình sẽ khỏi
Tử Phược xin giám hỏi tiên sinh
Chẳng may nhầm lẫn tứ kinh
Khí hư năm tạng tâm linh mịt mờ?

Tâm làm chủ thần nhơ xác nhược
Sư Tổ thường biết trước tâm linh
Chỉ xem dáng vẻ thân hình
Tạng can thuộc mộc dưỡng sinh khí trời

Tập khí công trong người thư thái
Loại trừ ngay lo ngại buồn phiền
Giữ cho thần thái an nhiên
Tránh xa trác táng bạc tiền bon chen.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
15.3.2020 Lu Hà




Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 7

Đời lắm kẻ ươn hèn bạc nhược
Liên kết bầy ô trược tiểu nhân
Thức ăn độc hại bất cần
Xanh xao trắng dã dày gân buộc lèo

Hồn khí uất hắt heo gió thổi
Ứa vị toan hấp hối kêu rên
Mạch sờ lay lắt chữ huyền
Âm kinh túc ấy dẫn truyền toàn thân

Cùng phủ đảm nối dần tâm tạng
Thuộc hỏa kinh theo dạng mạch hồng
Mùa hè sắc đỏ lưỡi phồng
Thất thần tụ máu chất chồng mùi hôi

Đường kinh thủ xa xôi âm thiếu
Ngôi tiểu trường ngoại phủ lại càng
Tạng tỳ thuộc thổ sắc vàng
Thuận theo tứ quý tiềm tàng là vui

Nếu nước dãi ngọt mùi mạch hoãn
Tiếng ca nghe chắc chắn nuôi hình
Thái âm kinh túc da mình
Hợp cùng phủ vị thần linh trụ trì

Tâm thư thái tức thì tạng phế
Ngôi trung châu mạch thể kim ti
Mùa thu sắc trắng vân vi
Vị cay ròng phách biểu bì lông trơn

Khi hắt hơi nước nhờn trong mũi
Thái âm kinh bờ bụi tỏ tường
Hợp cùng ngoại phủ đại trường
Tạng kia thận nọ vẫn thường mùa đông

Đều thuộc thủy phải thông thuộc trước
Sắc vị đen chỉ được nuôi xương
Rên la nước miếng thất thường
Hai tai chừng đó giữ phương mạch trầm

Phần kinh túc thiếu âm phải rõ
Hợp bàng quang phủ đó hóa nguyên
Tiều phu năm tạng đã biên
Còn  trong sáu phủ nói liền cho ra

Đạo Dẫn cười người ta túi mật
Xuân mộc kinh đúng thật thiếu dương
Tượng theo nắm bắt phải tường
Phủ can muôn mối liệu đường trước sau

Chiều ruột nhỏ mau mau hạ hỏa
Tiểu trường hay thoái hóa kinh cầm
Bên ngoài giữ phủ an tâm
Nước trôi rửa sạch âm thầm tạo sinh

Phần kinh túc dương minh khẩn thiết
Ăn uống càng phải biết can ngăn
Kiêng khem chồng chất khó khăn
Ruột rà bao tử trở trăn đêm ngày

Đại trường nhức nhối ngay uế khí
Phải lo xa tỳ vị hơi cầm
Ních đầy cặn bã xuống hầm
Phân đùn tanh tưởi thân tâm dật dờ.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
16.3.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 8

Ép bọng đái thấy dơ nước tiểu
Kinh thái dương tiết niệu hoả hơi
Biết ngay phủ ấy tả tơi
Từ trên xuống giữa dưới thời tam tiêu

Do ăn uống nạp nhiều tạp chất
Để toàn thân bần bật rã rời
Hơi thừa bủa khắp ba nơi
Đứng ngồi không vững máu tươi ứa trào

Phải kê đúng thuốc sao đặc hiệu
Ngấm vào trong phải hiểu từng toa
Mười hai kinh lạc điều hòa
Giúp cho tạng phủ giao thoa thế nào?

Ngư Tiều hỏi tâm bào kinh thủ
Còn liệu chừng tam phủ âm dương
Làm sao y thuật hiền lương
Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư?

Đạo Dẫn bảo Nhân Sư chứng thực
Bến ngũ hành ý thức nhân sinh
Mộc kim thủy hỏa thổ trình
Hiểu cho cặn kẽ muôn hình vần xoay

Mộc sinh hỏa ai hay thành thổ
Thổ sinh kim hội ngộ thủy ra
Thủy về mộc lại thiết tha
Đất trời sinh sản bao la vô cùng

Mộc khắc thổ mịt mùng thổ thủy
Thủy chẳng ưa hỏa lụy chân kim
Kim xa mộc lại đi tìm
Mộc đâu giá lạnh im lìm chúng sinh

Tiếng quạ kêu hôi rình xác chết
Việc dữ lành thống thiết muôn loài
Tử sinh trong cõi trần ai
Cỏ cây muông thú u hoài ngàn năm

Máy tạo hóa trăng rằm sáng tỏ
Khéo khen thay tay thợ ngũ hành
Phải coi sách ấy cho rành
Dịch kinh hà lạc thuần thành mới thôi

Aỉ Thiên Can mấy hồi Ngũ Vận
Phải tinh tường chủ vận là chi?
Thiên can mười chữ có ghi
Anh em thứ lớp nhất nhì chẳng sai

Sinh ra được một trai một gái
Năm phương càng chẳng ngại âm dương
Giáp cùng ất mộc đông phương
Bính thì đinh hỏa tỏ tường nam phương

Mậu kỷ thổ trung ương thấu tỏ
Canh tân kim vẫn ở tây phương
Thuận theo tạo vật vô thường
Cùng nhâm quý thủy bắc phương ý trời.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
17.3.2020 Lu Hà




Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 9

Năm ngôi chủ chẳng dời thời vận
Suy ngẫm ra thân phận con người
Trần gian dở khóc dở cười
Nghìn năm vương vấn như lời thơ xưa

Tiết Đại hàn đến chưa Mộc vận
Trước ba ngày vận Hỏa hận thanh minh
Ba ngày Mang chủng thành hình
Ai hay Thổ vận rập rình theo sau

Sáu ngày tới Lập thu Kim vận
Chín ngày đầu lận đận Lập đông
Khen thay tạo vật hóa công
Muôn hình vạn trạng dõi trông mọi miền

Cứ năm nhà túc duyên kỳ lạ
Vợ hợp chồng vàng đá trước sau
Giáp chàng nàng Kỷ cưới nhau
Hóa ra vận Thổ một màu sắt son

Ất Canh lại héo hon lòng dạ
Mộc cây trầm sỏi đá Đinh Nhâm
Bính Tân xem cũng chẳng lầm
Thủy tràn lai láng lâm dâm sông hồ

Vầng quang hỏa anh Mồ Chị Quý
Bướm hoa sầu bi lụy khi mô
Bởi năm hóa tạo ô hô
Đôi bờ ân ái nhấp nhô sóng vờn

Giàu tiền bạc chập chờn Kim mệnh
Mộc thành rừng toan tính sau đây
Thủy tuôn cuồn cuộn ngập đầy
Hỏa thành ngọn lửa bấy chầy phương nam

Suy sét ra từng năm vận khách
Tính theo niên đành hạch chi ai
Gỉa như Giáp Kỷ trúc mai
Hóa ra hành Thổ khứ lai kể gì?

Thổ sinh Kim vận nhi là vậy
Kim  sinh thành thủy ấy vận ba
Thủy sinh mộc nảy gần xa
Rừng cây chen chúc đó là vận tư

Mộc sinh hỏa luận từ kinh dịch
Bảy mươi hai ngày tính năm nay
Lại dư năm khắc nào hay
Lấy năm Giáp Kỷ lời thaỳ nói ra

Bao năm nữa đều là như thế
Phải coi chừng nặng nhẹ vân vi
Đổi thay thay tinh tú các vì
Ai hay xoay chuyển mấy khi ngũ hành

Giáp  bính mậu nhâm canh thái quá
Bất cập đành nhân quả dương phân
Năm đinh ất kỷ quý tân
Còn bao trắc trở  về phần âm can

Phải biết được đaị hàn trước tiết
Mười ba ngày khẩn thiết thái tiên
Rồi sau tính đến hậu thiên
Hai mươi sáu chẵn hậu tiên giao bàn

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
17.3.2020 Lu Hà




Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 10

Đất có hậu thế gian trời định
Cậy khôn ngoan mưu tính cái gì?
Ngư tiều đến ải Địa Chi
Thấy non lục khí đường đi ngoằn ngoèo

Rừng âm u hắt heo chủ khí
Cỏ đá chen vị trí đổi thay
Mỉm cười Đạo Dẫn cho hay
Có mười hai chữ vần xoay bốn mùa

Dần Mão Mộc sim mua nở rộ
Tiếng ve sầu tu hú gọi hè
Hương thu thân dậu kim khoe
Tiết đông hợi tý nước be dũng tuyền

Thìn tuất sửu mùi liên đất lạnh
Tứ quý càng hiển hách từng mùa
Luân phiên sáu đợt ấn bùa
Líu lo chim chóc gió lùa nắng xuân

Lửa phừng phừng tới tuần quân hỏa
Tiết xuân phân chuyển hóa hai ba
Viêm oai hừng hực sơn hà
Thái âm mưa móc cửa nhà nhá nhem

Dương minh tới lom lem khô héo
Thái dương hàn khí kéo rèm bưng
Hân hoan uống chén rượu mừng
Trai thanh gái lịch tưng bừng kết hôn

Sáu hơi chủ thần hồn chẳng dứt
Cứ từng năm giành dựt trời an
Luân phiên từ tiết đại hàn
Chính trong ngày ấy giao ban khí đầu

Hơi bình chẳng trước sau tuần tự
Sách Tàu ghi hai chữ tề thiên
Bảo rằng “binh khí chi niên”
Để cho chủ tử  chính chuyên canh phòng

Từ sáu cặp thong dong xung đối
Xây vòng chia chẳng vội định ngôi
Ô hay khách khí xa xôi
Mong cho tý ngọ bồi hồi thiếu âm

Xây một tòa thái âm quân hỏa
Sửu đối mùi đe dọa thiếu âm
Thái dương hàn thủy xuống tầm
Đùng đùng sấm chớp mưa dầm liên miên

Dần đối thân hoàng thiên tướng hỏa
Khí thiếu dương phong tỏa giữ trời
Quyết âm xuống đất muôn nơi
Mộc truyền lan khắp xanh tươi một màu

Năm mão dậu nhạt nhòa tý ngọ
Ngược lại như chăng chớ tuất thìn
Đắn đo tỵ hợi mỏi nhìn
Đất trời u ám kìn kìn mây đen

Giữ hoàng thiên vốn quen quân hỏa
Dưới trần gian kim táo hai nơi
Cầm quyền khí bốc lên trời
Tư thiên tả hữu chơi vơi nẻo nào

Ta cũng biết âm hao sáu khí
Nam bắc kia ngọ tý chi niên
Tuần hoàn ra thế liên miên
Đất xung bên tả lan truyền khí sơ.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
18.3.2020 Lu Hà




Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 11

Khí thứ hai dật dờ bên hữu
Ngôi thiên tư thành tựu thứ ba
Trời kia bên tả tư ra
Đất thì bên hữu rõ là khí năm

Tư tuyền chung lăm lăm khí sáu
Hơi bốn mùa nương náu đến nay
Thung thăng khoảng sáu mươi ngày
Tám mươi bảy khắc nữa rày hữu cơ

Ngọn lúa đòng phất phơ thấp thoáng
Yếu quyết xưa ló dạng đầu bờ
Niềm vui thao thức bao giờ
Hai ngôi thoái lại đợi chờ mỗi niên

Cứ xuôi ngược đầu tiên chẳng trách
Tý thiên tư bức bách về đâu
Hai heo ba chuột bốn trâu
Năm hùm sáu thỏ trọn xâu dẫn truyền

Mão tư thiên xoán liền ngôi sửu
Dấy khí sơ hùm thỏ đến rồng
Rằng hai ba bốn đã thông
Năm trăn sáu ngựa trọn công tư truyền

Hai năm ấy lệ biên lâu nữa
Này những năm thấp thổ tư thiên
Thấy ngay hàn thủy đến phiên
Như năm tướng hỏa mộc nhiên tạo thành

Bởi chính hóa giao tranh đối lại
Chẳng đồng nhau trở ngại gốc trồng
Ngựa dê gà cọp heo rồng
Chuột trâu khỉ thỏ rắn muông đua giành

Theo gốc số bẩm sanh tạo hóa
Đối nghịch nhau thời họa thực hư
Thiếu thừa theo luật bù trừ
Chỗ tiêu nơi bản đều từ ấy ra

Thì hãy dở sách tra sẽ thấy
Càng thấm nhuần lời dạy thực hay
Cổ kim năm khí vận may
Máy trời sáu khi xưa nay tỏ tường

E khách chủ hai đường lẫn lộn
Khó toan bề bận rộn ngó coi
Đạo Dẫn tạo vật sáng soi
Khí theo khí xét rạch ròi sử biên

Như giáp tý chi niên giả dụ
Vận khí chia quyền đủ một năm
Giáp tìm thổ vận duyên cầm
Tý đưa quân hỏa âm thầm khí đi

Khách gia cũng chỉ vì trên chủ
Chủ chịu lòn khí tụ ngưng tà
Đất trời chẳng chịu dung hòa
Trái ngang hơn thiệt mới ra bất tề

Mùa xuân ấm chẳng về xoa dịu
Gió heo may bấu víu lạnh lùng
Mùa hè hơi nóng tận cùng
Khí âm ẩn núp hãy hùng khí dương

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
19.3.2020 Lu Hà


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét