Thứ Năm, 9 tháng 1, 2020

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 55


Hồng Nhan Bạc Mệnh (1)

Cám ơn nghệ sĩ Trần Thu Hà đã ngâm thơ lục bát dài. Bài trường ca ai oán khổ não của tôi với nhan đề “Hồng Nhan Bạc Mệnh“ tả về cảnh ngộ đời một người cung nữ tài sắc vẹn toàn, lúc đầu được vua chúa yêu rất sủng ái sau bị bỏ rơi, ghẻ lạnh. Tôi đã cảm xúc phỏng theo bài thơ song thất lục bát dài của thi sĩ Nguyễn Gia Thiều có tên gọi là “Cung Óan Ngâm Khúc“. Tiên sinh vốn dĩ là con trai của  quận chúa Quỳnh Liên cháu ngoại chúa Trịnh Hy Tô. Xuất thân một võ quan được phong tới chức Ôn Như Hầu, ông lại rất giỏi tinh thông thanh luật làm thơ đường luật và thơ song thất lục bát.


Theo tôi thơ song thất lục bát của ta xuất hiện trước thể thơ lục bát, kể từ khi một số học giả trí thức sáng chế ra chữ Nôm. Một dạng hao hao giống chữ Hán nhưng phát âm thuần tiếng Việt. Thời cụ Nguyễn Trãi chưa có thơ lục bát. Theo tôi có lẽ công chúa  Trần Huyền Trân đi làm dâu Chiêm Thành vương quốc Chăm Pa thuộc miền Quảng Trị Thừa Thiên Huế ngày nay. Dân tộc này rất giỏi làm ca dao truyền khẩu, trai gái thường thổi kèn và hát trên đầu những ngọn suối theo vần điệu mà người Việt học tâp cải biên thành thơ lục bát, rồi lan truyền khắp miền Nam ra thể thơ lục bát, sau đó lan ra cả miền Bắc. Đỉnh cao là Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du và Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu? Để tri ân sự cố gắng của nghệ sĩ Thu Hà và  cũng muốn để tặng hậu thế và các bạn yêu thơ văn ngôn ngữ Việt Nam. Tôi viết bài bình giảng này, thơ lục bát của tôi dài 368 câu và song thất lục bát của thi sĩ Nguyễn Gia Thiều dài 356 câu. 

“Vách tường lóng lánh vua yêu
Trước sân trồng quế mĩ miều Lệ Hoa
Vũ y lã chã nhạt nhòa
Sương rơi phận bạc một tòa thiên hương“

Theo điển thích của Tàu, ngày xưa Trần Hậu Chủ là một ông vua phong lưu có tài làm thơ  viết nhạc, nhưng lại ăn chơi sa đọa. Vua rất sủng ái cung phi Trương Lệ Hoa, nên cho xây một cái cửa tròn khảm thủy tinh pha lê trên tường, trước sân có trồng một cây quế, mỗi khi nàng Trương Lệ Hoa đứng ngắm mình thì cả cây quế và người đẹp lấp ló trong gương như nàng Hằng Nga và cây quê trên cung trăng. Vũ y là loại áo làm bằng lông chim thời đó chỉ có đệ nhất mỹ nhân mới xứng đáng được mặc. Đời người con gái đẹp ví như kiếp hồng nhan bạc mệnh như giọt sương rơi như hạt mưa sa mười hai bến nước biết vào vai ai? Nhưng nàng cung nữ tôi mô tả trong thơ không có may mắn được thoát ra ngoài và nàng bị giam hãm trong cung cấm đến suốt đời.
Cho nên cụ Nguyễn Gia Thiều đã mở đầu luôn:
“Trải vách quê gió vàng hiu hắt
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng
Oán chi những khác tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má đào“
Đến đây xin mọi người chú ý cho cứ thơ lục bát là của tôi và thơ song thất lục bát được trích dẫn thì phải hiểu ngay là của Nguyễn Gia Thiều sáng tác.

“ Trướng đào bao khách vấn vương
Tiêu phòng oán trách tang thương não nùng
Dở dang tủi hận vô cùng
Nỗi niềm ai oán hoàng cung lạnh lùng“

Mục đích của tôi không thiên về bình thơ mà chỉ chú trọng nhiều vào việc giải nghĩa phân tích những câu chữ khó và các điển tích. Những câu chữ thuần Việt đơn giản dễ hiểu tôi để mọi người tự cảm nhận lấy.
 Tiêu phòng ngày xưa các bà hoàng hậu, quý phi, cung tần thường dùng hạt tiêu tán nhỏ thành bột trộn lẫn với hồ bôi vào vách cho thơm và thêm ấm cúng.

“Tiếc thay cho đóa phù dung
Dây uyên nương nhẹ sợ chùng phím loan
Nhạt mùi áo gấm nàng Ban
Thu ba gợn sóng nồng nàn bóng gương“

Hoa phù dung đẹp kỳ lạ, cánh hoa mềm mại mỏng phơn phớt đỏ nhạt, thật là nhẹ nhàng êm ái, nhưng lại sáng nở chiều tàn, ví như nhan sắc của người đàn bà con gái. Rực rỡ nhất là tuổi 16 hay 18. Người Việt có câu: Trai 30 tuổi vẫn còn xoan, gái 30 tuổi đã toan về già. Ngày nay tôi biết có rất nhiều quý bà nghệ, sĩ ca sĩ 50 hay 60 tuổi nhưng nhan sắc vẫn không hề phai nhạt, đẹp một cách kiên trì dai dẳng. Gừng càng già càng cay, sắc đẹp càng mặn mà mê hồn người ta. Những trường hợp này ngày xưa rất hiếm hoi để được được như Dương Quý Phi, Chiêu Quân, Tây Thi, Trần Huyền Trân, Lê Ngọc Hân. Thời xuân thu nàng Hạ Cơ gái nước Trịnh sau làm dâu nước Trần biết thuật hấp tinh đại pháp. Nàng có tài luyện được cái bộ phận sinh dục của mình co bóp theo ý muốn, nàng có thể ăn nằm với hàng ngàn người đàn ông, sau mỗi vụ chăn chiếu đều có vài giọt máu hồng chảy ra. Nhờ có thuật hoàn tân mà nhiều người lầm tưởng là gái còn trinh, cô bé luôn khít khìn khịt, rất chặt rất bóp sau mỗi lần giao hợp. Kỹ thuật điêu luyện thặng thừa vào bậc bạch mi sư tổ với thân hình nuột nà trắng mịn làm cho đàn ông mê mẩn cả tâm thần. Sau khi chồng chết Hạ Cơ nổi tiếng với mối tình tay bốn cùng với hai quan đầu triều là Khổng Ninh, Nghi Hàng Phu và vua Trần Linh Công. Nàng còn tặng cho 3 vị dê xồm những báu vật như quần lót bằng gấm, áo lót bằng lụa màu xanh biếc. Trải qua nhiều thế kỷ bí mật hấp tinh đại pháp cũng được khám phá ra bằng cách tập thể dục rèn luyện các cơ vòng  của âm hộ lên cảnh giới tĩnh tâm như tọa thiền vậy. Võ Tắc Thiên đã luyện được hấp tinh đại pháp với khả năng 70 tuổi vẫn làm tình mạnh như con trâu cái với đám trai trẻ đáng tuổi con cháu mình.

Uyên ương là một cặp vịt nước có màu sắc sặc sỡ con trống con mái luôn quấn quít bên nhau chung thủy suốt đời. Dây uyên nương nhẹ là nguyện vọng của nàng cung nữ muốn cho sợi chỉ tơ hồng buộc cổ tay nàng với vua chúa sợ căng quá như dây đàn bị đứt dây như mối tình bị tan vỡ. Nàng Ban là một cung tần của vua Thành Đế nhà Hán, làm nữ quan đến chức Tiệp Dư giỏi văn thơ đàn nhạc được vua yêu quí lắm. Sau nàng bị dâm nữ Triệu Phi Yến gièm pha mà sợ bị hại đến thân mới xin được đi hầu hạ bà Thái Hậu để làm chỗ hậu thuẫn. Nàng có làm một cái quạt bằng gấm sợi tơ trắng tự dệt ra mà ví thân phận mình hẩm hiu như cái quạt với bài thơ đề tặng vua. Theo nghĩa tiếng Việt là:
“Mới dệt lụa tề trắng
Trong sạch như sương tuyết
Đem làm quạt hợp hoan
Tròn hình giống mặt nguyệt
Ra vào trong tay vua
Lay động sinh gió mát
Thường sợ tiết thu đến
Gió mát cướp nồng nhiệt
Ném cất vào xó rương
Nửa đường ân ái tuyệt“

“Cỏ cây cũng muốn lên giường
Mây mưa nổi trận đại dương sóng trào
Lừ đừ cá lặn nôn nao
Ngẩn ngơ chim nhạn lạc vào nguyệt hoa“
Bốn câu này thuần túy tả cảnh truy hoan ân ái thiết tưởng chẳng có gì khó hiểu về mặt ngôn ngữ tiếng Việt. Đọc lên đến đứa trẻ con nó cũng hiểu nên tôi không muốn giải thích phân tích dài dòng.

“Tây Thi vén váy xuýt xoa
Điêu Thuyền liếc mắt lòa xòa tóc mây
Lưu Linh  Đế Thích ngất ngây
Kìa chàng Lý Bạch vui vầy du dương“

Tây Thi và Điêu Thuyền là hai mỹ nhân tuyệt sắc. Tây Thi người nước Việt theo mưu kế của Văn Sủng và Phạm Lãi xui Việt Vương Câu Tiễn cống nàng cho vua nước Ngô là Phù Sai để làm gián điệp nội cung, lung lạc ý chí Phù Sai. Phù Sai mê nàng cho xây cung điện Cô Tô tốn kém ngân ngố sức dân, coi thường lời khuyên của tướng quốc Ngũ Tử Tư mà bị mất nước. Về sau nghe nói Phạm Lãi từ quan mang Tây Thi chu du ngũ hồ và biệt vô âm tín. Điêu Thuyền thì bắt cá hai tay giữa Đổng Trác và con nuôi y là Lã Bố, để hai cha con đâm chém nhau theo kế của Vương Tư Đồ.

Nàng Tây Thi

Việt quốc non sông bạc mỹ nhân
Ngàn năm hương sắc vẫn lưu truyền
Trữ La chân núi hồn thơ thẩn
Một đoá trà mi cõi mộng trần

Lịch sử ngàn năm có ngậm ngùi
Trăng thu bàng bạc nhớ thương người
Tấm lòng trong trắng mười năm lẻ
Tất cả giang sơn một nụ cười

Độc kế mỹ nhân sâu hiểm sao
Ba quân ớn lạnh nét yêu kiều
Thù nhà nợ nước vì ai chứ
Câu Tiễn kẻ kia khéo mập mờ

Ngô quốc quân vương lạc nước cờ
Si tình vương nặng nỗi thương đau
Thù cha phút hoá thành tri kỷ
Hận để ngàn thu một nỗi sầu

Ai giết cha nàng có biết không?
Đôi bên tranh chấp khó coi tường
Địch ta mờ ảo làn ranh giới
Tuổi trẻ thơ ngây chiụ lỡ làng

Mộng tưởng cống Ngô là cứu đời
Vinh quang hiển hách để cho ai
Kẻ kia lam lũ cùng cam chiụ
Bá tánh chiụ ơn chẳng bận gì

Câu Tiễn Phù Sai cũng thế thôi
Quân vương tranh bá chuyện bao đời
Kẻ nhân người ác nào ai biết
Chuyện đã qua rồi máu lệ rơi

Tàn bạo hơn thua mất nước rồi
Hội Kê nuốt hận chẳng nên lời
Năm nghìn binh giáp còn hy vọng
Phục quốc oan hồn bao tử thi

Ba năm nô lệ cho Phù Sai
Câu Tiễn bền gan ở xứ người
Nếm phân Phạm Lãi bày mưu kế
Suối lệ nhạt nhoà em gái ơi...

Người mẹ quê hương có thấu chăng
Ngàn thu vạn kiếp vẫn chờ mong
Trữ La bến nước sầu lưu luyến
Hồn ở Linh Nham thuộc nhớ đường


Tình giả mà sao nông nỗi này
Chân thành ân ái cuả Phù Sai
Phút giây chẳng nỡ dời cung Quảng
Chôn dấu trong tim một bóng người…

Thương mẹ lòng ai nhớ cố hương
Dặn dò em gái phút chia ly
Ra đi nhẹ nhõm hồn thanh thản
Chân núi Linh Nham nhuộm bóng hồng

Giây phút cuối cùng đã hiểu ra
Thương thân phận bạc kiếp tài hoa
Việt Ngô hai nước liền sông núi
Con cháu muôn dân vẫn một nhà

Xả hiến thân mình cho nước non
Vầng trăng vằng vặc tấm lòng son
Khuyên Vua vô ý gây nên tội
Cung Quảng xa hoa nợ oán hờn

Bắc tiến Trung Nguyên mộng bá quyền
Phù Sai nghe vợ bước điêu tàn
Chiến tranh xuy yếu nguồn quân lực
Nạn đói mất muà dân khóc than

Tây Thi nàng hỡi có hay chăng
Câu Tiễn làm sao hiểu nỗi lòng
Công lao bỗng hoá thành ân oán
Tan nát đời hoa những tháng ngày

Thích khách phái đi muốn giết nàng
Tâm xà ác độc rõ Việt Vương
Một công đôi việc hai nhân mạng
Chiếm đoạt tình yêu kẻ phũ phàng

Ván đã đóng thuyền Phạm Lãi ơi
Tài trai kiêu dũng trí hơn người
Tình ta đôi ngả từ đây nhé
Quảng hàn biền biệt vắng Tây Thi

Hồn ở trên mây ngó xuống không
Ngàn năm hạ giới xót thương nàng
Hôm nay có kẻ buồn day dứt
Viết một bài thơ gưỉ gió trăng

1.12. 2008 Lu Hà

 Lưu Linh người đất Bái có tính phóng khoáng thích uống rượu kết bạn cùng các thi nhân Nguyễn Tịch, Khê Khương có làm bài thơ tửu đức tụng  nói về đức tính của rượu. Còn Đế Thích tên là Lý Chế một nhà sư có tài đánh cờ vây gọi là cờ tiên rất cao. Lý Bạch là một thi sĩ thơ đường luật nổi tiếng tự xưng là tú khẩu cẩm tâm nghĩa là miệng gấm lòng thêu.

“Dương Phi tấu nhạc nghê thường
Địch lầu dám sánh thu đường Tiêu Lang
Dập dìu oanh yến mơ màng
Bệnh Tề Tuyên đã siêu thăng thiên đàng“

Dương Phi tức Dương Quý Phi tên cúng cơm là Dương Hoàn. Tôi rất ngưỡng mộ sắc đẹp của nàng và thầm so sánh nàng với nghệ sĩ Ái Vân.

Dương Qúy Phi

Sắc quốc nghiêng thành Dương qúy Phi
Thiên hương nhân nghiã khó ai bì
Cầm kỳ thi phú yên thiên hạ
Thiên sử ngàn thu để lại đời

Lễ giáo vương triều bạc thế sao?
Thâm cung lục viện gió mưa sầu
Tam lang thương gọi cùng minh đế
Giấc mộng thường dân chẳng được chiều

Khúc nhạc nghê thường trong giấc mơ
Mai phi cánh bướm đẹp thơm hoa
Hồng nhan bạc mệnh đời cung nữ
Tri kỷ hồn thơ Lý Bạch xưa

Hoàng hậu phi tần sát hại nhau
Bao nhiêu thảm cảnh nát lòng vua
Vô tư Hoàng Đế tiêu nòi giống
Vương nợ oan hồn bao trẻ thơ

Ai xót thương nàng Dương quý Phi
Tấm lòng trong trắng đoá hoa tươi
Ngây thơ vương lụy hồn vong quốc
Họ mạc lân bang hại giống nòi

Giây phút hiểm nguy lià cõi đời
Ra đi chẳng thẹn cánh hoa trôi
Mang thân chuộc lại tình non nước
Để lại ngàn thu luống ngậm ngùi

Oan ức cho nàng bậc mỹ nhân
Phong ba lưu lại đoá hương trần
Làm thơ nhớ tiếc hồn xưa ấy
Lý Bạch ôm trăng một giọng đàn.

 2008 Lu Hà

Giọt Thương Lệ Cuối Cùng
 tặng Ái Vân

Gần ba thập kỷ mất tăm hơi
Bỗng nổi sung lên giận dữ đời
Thương tiếc làm chi đừng nói nữa
Ngậm mồm ai phải chiụ cho ai?

Có phải xa nhau là đã hết
Nỗi sầu lưu đọng buốt trong tim
Chuyện xưa nhắc laị càng thêm rối
Hãy để người yên nhẹ nhõm dần

Chẳng phải taị anh chẳng tại em
Trời già cay nghiệt thói hồng nhan
Đường xa phố cũ còn đâu đấy
Dấu bóng người xưa đã lụi tàn

Anh biết rằng em vẫn nhớ anh
Nỗi niềm thổn thức với năm canh
Phải chăng duyên nợ trời cho vậy
Hận để ngàn thu mộng chẳng lành

Anh đi trong cõi mù xa thẳm
Em trở về quê pháo đỏ đường
Có phải vì anh mà giận dữ
Nên đời em phải chiụ đau thương?

Đám cưới đưa ma một cuộc tình
Thoáng qua ảo mộng vẫn in hình
Đến khi em hiểu thì em đã
Vội vã làm chi để hại mình

Người ấy ngày xưa thật lạ lùng
Ung dung thư thả cốt phong trần
Gặp nhau như dính vào căn số
Lụy để tình em chiụ lỡ làng

Hối hả cho ai cái ảo danh
Em tôi leo đến tận trời xanh
Cho đời em trở thành vô nghĩa
Hận cả cho anh một cuộc tình

Anh đã đi rồi em mới thương
Cuộc đời nghĩ lại thật vô thường
Em tôi trẻ quá thành non dại
Trắng cả đời anh một cõi lòng

Nay tuổi cao rồi vẫn thở than
Thương cho phận bạc cái hồng nhan
Người ta háo hức vì tăm tiếng
Buồn cả cho anh lạc nẻo trần


Đời khổ lắm rồi có biết không?
Giang hồ lãng tử thú ngang tàng
Ta bà bể ái còn bi lụy
Vui lắm em ơi! Cõi mộng trường

Xét laị cho cùng vẫn thấy vui
Khen cho cơn bão chốn mù khơi
Mừng ai có hưởng mùi say sóng
Mới biết rằng ta ở cõi đời

Một giấc ngủ trưa có xá gì
Đời nhanh như mộng chỉ vui thôi
Vô thường em vẫn thường hay nói
Ra thế hai ta nhạo báng đời

Thôi đừng rên rỉ với lời thơ
Đổi giọng đi anh để đẹp hoa
Mới biết ta bà vui đấy chứ
Ngân nga than thở mấy canh gà

Khóc nốt giọt này có thế thôi
lắm lời chỉ tổ khổ nhau thôi
Ngang tàng hãy sống cho ra sống
Hẹn lại muà sau cõi luân hồi!

4.2.2008 Lu Hà


Tiêu Lang tức chàng Tiêu  có tài thổi ống tiêu như tiếng chim phụng kêu, dạy nàng Lộng Ngọc tức con gái Mục Công nước Tần thành tài. Sau có chim phụng lớn bay xuống, hai người cưỡi chim lên trời thành tiên.
Vua nước Tề là Tuyên Vương  khi nói chuyện thuật trị quốc với thày Mạnh Tử có câu:
”Quả nhân hữu tật, quả nhân hiếu sắc. Bệnh Tề Tuyên nổi lên cuồn cuộn như sóng thủy triều tức là cơn điên dục vọng sắc đẹp của một đấng quân vương không sức gì cản nổi, có thể nhấn chìm cả thiên hạ xuống đáy biển.

“Phụng cầu Tư Mã xênh xang
Trác Văn Quân, ngả đèn nhang vội vàng
Sắc tài trong nước lừng vang
Thần tiên cũng chịu xếp hàng thưởng hoa”
Tư Mã Tương Như người ở Thành Đô có tài văn chương đàn hay đã gảy khúc phụng cầu làm cho nàng Trác Văn Quân gúa chồng say như điếu đổ, nửa đêm bỏ trốn nhà trèo thuyền qua sông tình nguyện làm vợ chàng họ Tư Mã. Hai người mở quán rượu làm ăn buôn bán phát đạt.

“Hoa xuân ca khúc thái hòa
Hồng lâu e thẹn thê noa chưa từng
Thâm khuê háo hức tưng bừng
Hàn quang ngỏ nhụy rượu mừng thơm lây”
Hồng lâu tương tự nghĩa như lầu xanh. Lầu xanh nơi ở của ả đào, ca kỹ, gái mãi dâm. Hồng lâu còn thanh  cao hơn một bực là nơi ở của vua chúa, các hoàng tộc, công hầu như Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần vậy. Thê noa là từ Hán Việt có ý nghĩa như thê nhi, vợ con. Nên cụ Nguyễn Gia Thiều mới viết:
“Hoa xuân nọ còn phong nộn nhụy
Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang
Hồng lâu còn khóa then sương
Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành”

Mới tý tuổi chưa nếm trải mùi đời, con gái còn trinh trắng trong khuê các thâm nghiêm cha mẹ gìn giữ ít cho ra ngoài giao thiệp với xã hội, chưa từng biết yêu đương.
Giống như cụ Nguyễn Du mô tả hai chị em Vương Thúy Kiều:” Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều”. Bỗng nhiên có chiếu chỉ của Vua tuyển vào cung cấm thật là tội nghiệp nếu được vua sủng ái thì còn khá chứ không thì như đóa hoa héo quắt trong bệnh tật già nua.

Các cô thiếu nữ đâ số là con cái những quan chức trong triều, ăn trắng mặt trơn. Họ mạc anh chị em xa gần thì tưởng bở có người được tiến cung, sau này còn nhờ vả mấy khi được kề cận thân rồng long thể nên háo hức tổ chúc yến tiệc tiễn đưa trọng thể. Một đóa trà mi hải đường mới ngỏ nhụy hương thơm của mùa xuân chưa từng nếm trải ánh trăng tức hàn quang cô dơn lạnh lẽo, ghẻ lạnh nơi cung cấm khi bị vua chúa chán chường hắt hủi? Thật là một bi hài kịch mỉa mai trớ trêu cho cuộc đời người cung nữ kém may mắn. Trong cung vua phủ chúa đâu chỉ vài chục cung nữ mà có hàng nghìn người chen chúc trong tam cung sáu viện. Họ có biết đâu dấn thân vào cung là tự hiến mình vào miệng cọp, vào nơi hang hùm nọc rắn, kín cổng cao tường, nội bất xuất ngoại bất nhập có khác chi nhà tù?

“ Khuynh thành hương sắc bấy chầy
Mùi hương giọt rấm vơi đầy canh thâu
Rắp ranh vương bá công hầu
Bướm xuân ngấp nghé trống chầu điểm danh“

Khuynh thành là sắc đẹp con gái làm nghiêng thành đổ nước người ta nhưng chắc gì trụ lại được lâu. Ở nhà cha mẹ cô dì chú bác trầm trồ tán tụng nhưng núi này còn ngọn núi khác cao hơn. Mình đã đẹp nhưng so với thiên hạ rộng lớn còn nhiều người đẹp hơn. Mùi hương tinh dầu của các cô gái thoa vào vùng kín để quyến rũ đàn ông như hoa hồng, oải hương, hoa nhài, ngọc lan tây là những thứ nước quý giá chỉ các cô gái vị thành niên, nhưng vài ba năm hay khi đã thành gái già với vua chúa thì ngoài 30 tuổi đã coi như phế phẩm, cái mùi thơm đó sẽ không quyến rũ nữa mà thành rấm (dấm) chua lòm lòm.  Khi đưa con gái vào cung thì cha mẹ rắp ranh tấp tểnh sẽ lên làm vương bá công hầu. Cha con sẽ ngấp nghé ở điện Thái Bảo khi nghe trống chầu điểm danh, hay nghe giọng nói the thé nửa nam nửa nữ của Thái Giám truyền gọi vào chầu Vua.

“Thiên thai đỉnh giáp để dành
Mặt phàm kia dễ lầu xanh nếm mùi
Phẩm tiên chẳng nỡ dập vùi
Vua yêu chúa dấu ngọt bùi chia nhau“

Thiên thai tên ngọn núi có tiên ở. Tích Lưu Thần và Nguyễn Triệu đi hái thuốc ở núi thiên thai, lạc vào cái động gặp hai nàng tiên nữ mà kết thành vợ chồng. Ở được vài tháng nhớ quê đòi về thăm. Về đến nhà thì đã quá 7 đời người chỉ còn đứa cháu nhớ mang máng các cụ cố 7 đời truyền nhau kể lại rằng: Ngày xửa ngày xưa có hai cụ tổ  tên là Lưu - Nguyễn vào núi hái thuốc rồi bông nhiên mất tích. Về sau hai chàng Lưu - Nguyễn lại rủ nhau vào núi mà mất hút luôn. Phẩm tiên là cái giá ngàn vàng chỉ sự trinh tiết của người con gái.

“ Máy trời động đậy trước sau
Xích thằng chi để lạt màu phấn son
Vắt tay nằm nghĩ héo hon
Nụ cười Bao Tự còn non nước gì?“

Máy trời hay gọi là con tạo. Như chúng ta hiểu ngày nay là quy luật tự nhiên. Xích thằng là sợi dây đỏ. Tích Vy Cố đời nhà Đường ở Tống Đô, một đêm trăng sáng đi dạo gặp một ông già đang xem sách bên có cái đãy cái bị đựng đầy tơ đỏ( xích thằng) mới tò mò hỏi? Ông cụ đáp rằng: Quyển sổ này ghi chép tên tuổi trai gái dưới thế gian, sợi dây để buộc duyên phận họ lại thành vợ chồng.
Bao Tự là một mĩ nhân thời xuân thu chiến quốc chỉ  để có một nụ cười của nàng mà nhà Chu mất nước.

“ Đời người như cánh chim ri
Lạc vào cung cấm thầm thì với ai
Lẻ loi lững thững gót hài
Lửa lòng nguội lạnh u hoài khổ đau

Mẹ cha cắt rốn chôn nhau
Thương con bồ liễu về sau thế nào?
Cù lao chín chữ nghẹn ngào
Trâm cài lược gãy má đào phôi phai“

Đúng như cái tiên đề bài thơ của tôi là Hồng Nhan Bạc Mệnh. Đời người con gái thật là quá ngắn ngủi. Tâm trạng của nàng cung nữ cũng giống như tâm trạng của tướng quân Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều. Tuy ông xuất thân thành phần quý tộc nhưng bản tính ngay thẳng không chịu luồn cúi, nịnh hót, không phe phái trong triều đình, tính tình phóng khoáng văn chương. Ông bị bị bọn gian thần gièm pha, nên ông trở thành người cô độc trong triều, ông chỉ thích ra ngoài ngao du với các văn nhân tài tử không quản việc triều đình, ông bị mất tín nhiệm. Vả lại người đương thời ghen ghét tài năng học vấn của ông. Nên ông treo ấn từ quan lui về ở ẩn, quanh năm với tấm áo nâu sồng đạm bạc tương cà muối rau qua ngày, chẳng cao lương ngũ vị gì của giòng dõi hoàng tộc,

27.10.2019 Lu Hà






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét